Skip to main content

Lộ trình Cardano là một hành trình xuyên qua lịch sử và đổi mới

Ngày 21 tháng 02 năm 2024 - Chia sẻ bài viết này trên Twitter | FacebookTelegram

Trong ngành công nghiệp Blockchain, Cardano nổi bật không chỉ vì tiến bộ công nghệ mà còn vì lộ trình ban đầu, được lấy cảm hứng từ những nhân vật có ý nghĩa lịch sử và văn hóa. Mỗi Kỷ nguyên trong lộ trình Cardano được đặt theo tên của một nhân vật nổi tiếng, tượng trưng cho sự phát triển của mạng. Bài viết này sẽ đưa bạn vào cuộc hành trình xuyên suốt lộ trình của Cardano, khám phá những tính cách đằng sau tên gọi của các Kỷ nguyên: Byron, Shelley, Goguen, Basho và Voltaire. Những người này là ai và tại sao họ lại trở thành nguồn cảm hứng cho Cardano?

Những tính cách đằng sau các giai đoạn phát triển của

Cardano Lộ trình Cardano ban đầu mà chúng ta thấy lần đầu tiên vào năm 2017 có 5 Kỷ nguyên được đặt theo tên của những người nổi tiếng. Mỗi Kỷ nguyên đưa chúng ta đến gần hơn để hiện thực hóa tầm nhìn đầy đủ của Cardano. Cardano được thiết lập để trở thành một hệ điều hành tài chính và xã hội toàn cầu.

Chúng ta hãy xem mô tả ngắn gọn về từng Kỷ nguyên trong lộ trình Cardano.

Kỷ nguyên Byron được đặt theo tên của George Gordon Byron, thường được gọi là Lord Byron, một nhà thơ, đồng nghiệp và chính trị gia người Anh. Kỷ nguyên Byron đại diện cho nền tảng của mạng Cardano. Trong Kỷ nguyên này, phiên bản đầu tiên của mạng Cardano đã được ra mắt, cho phép người dùng mua và bán ADA.

Kỷ nguyên Shelley được đặt theo tên của Percy Bysshe Shelley, một nhà thơ, nhà viết kịch và nhà tiểu luận người Anh. Kỷ nguyên Shelley tập trung vào sự Phi tập trung. Trong Kỷ nguyên này, Cardano đã chuyển đổi từ mạng liên kết sang mạng phi tập trung, cho phép các bên liên quan vận hành các node và xác thực các giao dịch.

Kỷ nguyên Goguen được đặt theo tên của Joseph Goguen, giáo sư Khoa học Máy tính người Mỹ. Kỷ nguyên Goguen giới thiệu các hợp đồng thông minh và hỗ trợ tài sản gốc cho Cardano. Điều này cho phép các nhà phát triển xây dựng các ứng dụng phi tập trung trên Cardano.

Kỷ nguyên Basho được đặt theo tên của Matsuo Basho, nhà thơ nổi tiếng nhất thời Edo ở Nhật Bản. Kỷ nguyên Basho là về những cải tiến về khả năng mở rộng. Nó nhằm mục đích cải thiện khả năng mở rộng và khả năng tương tác của mạng Cardano, làm cho mạng này trở nên hữu ích hơn cho các ứng dụng trong thế giới thực.

Kỷ nguyên Voltaire được đặt theo tên của François-Marie Arouet, được biết đến với bút danh Voltaire, một nhà văn, nhà sử học và triết gia thời Khai sáng người Pháp. Kỷ nguyên Voltaire nói về quản trị phi tập trung và ra quyết định. Nó giới thiệu một hệ thống bỏ phiếu và ngân quỹ, mang lại cho cộng đồng Cardano sức mạnh để tác động đến sự phát triển của mạng trong tương lai.

Kỷ nguyên Byron đã hoàn tất. Tuy nhiên, ví dụ như ví Daedalus sẽ tiếp tục được cải thiện vì nhóm phải đáp ứng với tiến bộ công nghệ đang diễn ra trong các Kỷ nguyên khác.

Kỷ nguyên Shelley và Goguen đã chính thức được chuyển giao, nhưng ngay cả trong trường hợp này, nhóm IOG vẫn đang nỗ lực cải tiến. Tại thời điểm viết bài, cộng đồng đang háo hức mong đợi Plutus V3, có thể coi là bản nâng cấp của thời Goguen.

Nhóm IOG đang đồng thời nghiên cứu các công nghệ gắn liền với Kỷ nguyên Basho và Voltaire.

Hãy xem ai là những nhân vật trong lộ trình Cardano.

George Gordon Byron

George Gordon Byron, còn được gọi là Lord Byron, sinh ngày 22 tháng 1 năm 1788 tại London, Anh và qua đời vào ngày 19 tháng 4 năm 1824 tại Missolonghi, Hy Lạp. Ông là một trong những nhân vật hàng đầu của phong trào Lãng mạn và được coi là một trong những nhà thơ Anh vĩ đại nhất.

Byron là con trai của thuyền trưởng John Byron và người vợ thứ hai, Catherine Gordon, một nữ thừa kế người Scotland. Sau khi cha anh phung phí phần lớn tài sản của bà, mẹ của Byron đưa anh đến Aberdeen, Scotland, nơi họ sống với thu nhập ít ỏi. Byron sinh ra với bàn chân khoèo, điều này khiến anh cực kỳ nhạy cảm về tình trạng khập khiễng của mình.

Năm 1798, ở tuổi 10, Byron bất ngờ thừa kế tước vị và tài sản của chú cố William, Nam tước Byron thứ 5. Ông được đào tạo tại Trinity College, Cambridge, trước khi di chuyển khắp châu Âu. Ông sống bảy năm ở Ý, nơi ông thường xuyên đến thăm người bạn và nhà thơ đồng hương Percy Bysshe Shelley.

Thơ của Byron có phạm vi rộng và hoàn thiện, từ lời bài hát và câu đối châm biếm đến những bài thơ và vở kịch tường thuật. Trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông có những câu chuyện dài 'Don Juan' và 'Chuyến hành hương của cậu bé Harold'; nhiều lời bài hát ngắn hơn của anh ấy trong ""Giai điệu tiếng Do Thái"" cũng trở nên phổ biến.

Sau này, Byron tham gia Chiến tranh giành độc lập của Hy Lạp chống lại Đế chế Ottoman và chết khi chỉ huy một chiến dịch trong cuộc chiến đó. Người con hợp pháp duy nhất của ông, ADA Lovelace, là nhân vật sáng lập ngành lập trình máy tính. Những đứa con ngoài hôn nhân của Byron bao gồm Allegra Byron, người đã chết khi còn nhỏ, và có thể cả Elizabeth Medora Leigh, con gái của chị gái cùng cha khác mẹ của ông, Augusta Leigh.

Cuộc đời và các tác phẩm của Byron tiếp tục thu hút trí tưởng tượng của độc giả trên toàn thế giới, khiến ông trở thành một nhân vật vượt thời gian trong thế giới văn học.

Bây giờ chúng ta hãy đi vòng một đoạn ngắn đến ADA Lovelace. Tên của cô ấy không gắn liền với bất kỳ thời điểm nào trong lộ trình Cardano, nhưng bạn chắc chắn biết rằng tên của cô ấy rất quan trọng đối với dự án.

ADA Lovelace

Token kỹ thuật số của Cardano, ADA, được đặt theo tên của ADA Lovelace. Bà là nhà toán học thế kỷ 19 và thường được công nhận là lập trình viên máy tính đầu tiên trên thế giới.

ADA Lovelace, sinh Augusta ADA Byron vào ngày 10 tháng 12 năm 1815, là đứa con hợp pháp duy nhất của Lord Byron. Mặc dù cha cô đã rời nước Anh mãi mãi khi cô mới được một tháng tuổi, ADA vẫn theo đuổi niềm đam mê toán học và logic.

Cô được biết đến nhiều nhất nhờ công trình nghiên cứu về máy tính đa năng cơ học được đề xuất của Charles Babbage, Công cụ phân tích. ADA là người đầu tiên nhận ra rằng chiếc máy này có những ứng dụng vượt ra ngoài khả năng tính toán thuần túy. Cô ấy đã tạo ra một chương trình cho Công cụ phân tích và vì điều này, cô ấy thường được coi là lập trình viên máy tính đầu tiên.

Vai trò tiên phong của ADA Lovelace trong lĩnh vực điện toán khiến cô trở thành cái tên phù hợp cho crypto Cardano, ADA, vốn đi đầu trong công nghệ Blockchain. Truyền thống của bà tiếp tục truyền cảm hứng và mở đường cho những đổi mới trong tương lai trong lĩnh vực công nghệ.

Percy Bysshe Shelley

Percy Bysshe Shelley sinh ngày 4 tháng 8 năm 1792 tại Field Place, gần Horsham, Sussex, Anh và qua đời trên biển ngoài khơi Livorno, Tuscany, Ý, vào ngày 8 tháng 7 năm 1822. Ông được coi là một trong những nhà thơ lãng mạn lớn của Anh.

Shelley là con trai của Timothy Shelley, một người đàn ông truyền thống bị mắc kẹt giữa một người cha hống hách và một cậu con trai nổi loạn. Shelley được đào tạo tại Học viện Syon House và sau đó tại Eton, nơi anh chống lại sự bắt nạt về thể chất và tinh thần bằng cách đam mê chủ nghĩa thoát ly giàu trí tưởng tượng và những trò đùa văn học. Vào mùa thu năm 1810, Shelley vào Đại học College, Oxford, nơi ông nhận học trò của mình là Thomas Jefferson Hogg làm đệ tử.

Niềm đam mê tìm kiếm tình yêu cá nhân và công bằng xã hội của Shelley dần dần được chuyển từ những hành động công khai thành những bài thơ được xếp hạng hay nhất trong tiếng Anh. Thơ của ông có phạm vi rộng và thành tựu, từ lời bài hát và câu đối châm biếm đến thơ tự sự và kịch. Trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông có 'Ozymandias', 'Ode to the West Wind', 'To a Skylark', 'Adonais', tiểu luận triết học 'Sự cần thiết của chủ nghĩa vô thần' và bản ballad chính trị 'Mặt nạ của tình trạng vô chính phủ'.

Cuộc đời của Shelley được đánh dấu bằng những cuộc khủng hoảng gia đình, sức khỏe kém và phản ứng dữ dội chống lại chủ nghĩa vô thần, quan điểm chính trị và sự bất chấp các quy ước xã hội của ông. Ông sống lưu vong vĩnh viễn ở Ý vào năm 1818 và trong bốn năm tiếp theo đã viết ra cái được gọi là 'một số bài thơ hay nhất của thời kỳ Lãng mạn'.

Danh tiếng của Shelley dao động trong thế kỷ 20, nhưng trong những thập kỷ gần đây, ông ngày càng nhận được sự tán thưởng của giới phản biện nhờ động lực sâu rộng của hình ảnh thơ ca, khả năng thông thạo các thể loại và hình thức thơ cũng như sự tương tác phức tạp giữa các ý tưởng hoài nghi, duy tâm và duy vật trong tác phẩm của ông.

Joseph Amadeus Goguen

Joseph Amadee Goguen là một nhà khoa học máy tính người Mỹ, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1941 và mất ngày 3 tháng 7 năm 2006. Ông giữ chức vụ giáo sư về Khoa học Máy tính tại Đại học California và Đại học Oxford, đồng thời giữ các chức vụ nghiên cứu tại IBM và SRI. Quốc tế.

Goguen nhận bằng cử nhân toán học tại Đại học Harvard năm 1963 và bằng tiến sĩ toán học tại Đại học California, Berkeley năm 1968. Cố vấn tiến sĩ của ông là Lotfi Zadeh, người sáng lập lý thuyết tập mờ.

Vào những năm 1960, cùng với Lotfi Zadeh, Goguen là một trong những nhà nghiên cứu sớm nhất về logic mờ và có những đóng góp sâu sắc cho lý thuyết tập mờ. Vào những năm 1970, công trình của Goguen là một trong những cách tiếp cận sớm nhất để mô tả đặc tính đại số của các kiểu dữ liệu trừu tượng. Ông là người khởi xướng và giúp phát triển dòng ngôn ngữ lập trình OBJ.

Sự phát triển lý thuyết thể chế của Goguen đã có tác động đáng kể đến lĩnh vực logic phổ quát. Hàm ý tiêu chuẩn trong logic mờ của sản phẩm thường được gọi là 'ngụ ý Goguen' và các phạm trù Goguen được đặt theo tên ông.

Ngoài những đóng góp của mình cho khoa học máy tính, Goguen còn có mặt sáng tạo. Ông làm thơ và cộng tác với vợ mình là Ryoko Goguen với tư cách là người viết lời, biên tập và sản xuất cho các dự án âm nhạc. Ông học thơ với Alan Ginsberg và William Merwin, và văn xuôi với William Burroughs, tại Đại học Naropa ở Boulder, Colorado.

Công trình của Joseph Goguen tiếp tục ảnh hưởng đến lĩnh vực khoa học máy tính, đặc biệt là trong lĩnh vực ngôn ngữ lập trình, logic mờ và ngữ nghĩa đại số.

Matsuo Bashō

Matsuo Bashō, sinh ra là Matsuo Kinsaku và sau này được gọi là Matsuo Chūemon Munefusa, là nhà thơ nổi tiếng nhất thời Edo ở Nhật Bản. Ông sinh năm 1644, gần Ueno, tỉnh Iga.

Bashō được làm quen với thơ từ khi còn trẻ. Trong suốt cuộc đời của mình, Bashō đã được công nhận nhờ các tác phẩm của mình dưới hình thức hợp tác haikai no renga; ngày nay, sau nhiều thế kỷ bình luận, ông được công nhận là bậc thầy vĩ đại nhất về thơ haiku (khi đó được gọi là hokku). Ông cũng nổi tiếng với các bài tiểu luận về du lịch bắt đầu bằng đề xuất về một bộ xương phơi nhiễm thời tiết (1684), được viết sau chuyến hành trình về phía tây đến Kyoto và Nara.

Thơ của Bashō nổi tiếng quốc tế, và ở Nhật Bản, nhiều bài thơ của ông được sao chép trên các tượng đài và địa điểm truyền thống. Mặc dù Bashō nổi tiếng ở phương Tây vì hokku, ông tin rằng công việc tốt nhất của ông nằm ở việc lãnh đạo và tham gia renku.

Ở tuổi thiếu niên, Bashō trở thành người hầu của Tōdō Yoshitada, người mà ông làm việc và cùng yêu thích renga. Những bài thơ của ông bị ảnh hưởng bởi trải nghiệm trực tiếp của ông về thế giới xung quanh, thường gói gọn cảm giác về một khung cảnh trong một vài yếu tố đơn giản.

Bashō qua đời vào ngày 28 tháng 11 CIP 1694. Cuộc đời và tác phẩm của ông tiếp tục thu hút trí tưởng tượng của độc giả trên toàn thế giới, khiến ông trở thành một nhân vật vượt thời gian trong thế giới văn học.

François-Marie Arouet

François-Marie Arouet, được biết đến nhiều hơn với bút danh Voltaire, sinh ngày 21 tháng 11 CIP 1694 tại Paris, Pháp và mất ngày 30 tháng 5 năm 1778, cũng tại Paris. Ông là một trong những nhà văn Pháp vĩ đại nhất và là nhân vật chủ chốt trong phong trào trí thức châu Âu được gọi là Khai sáng.

Voltaire sinh ra trong một gia đình trung lưu ở Paris. Ông được đào tạo tại Collège Louis-le-Grand và sau đó đã tìm cách gia nhập vào môi trường trí thức Paris rực rỡ nhất trong Kỷ nguyên của mình. Cha của ông là François Arouet, một quan chức ngân khố nhỏ. Voltaire tin rằng ông là con trai của một sĩ quan tên là Rochebrune, cũng là một nhạc sĩ.

Voltaire là một nhà văn đa năng và sung mãn, viết ra các tác phẩm ở hầu hết mọi thể loại văn học, bao gồm kịch, thơ, tiểu thuyết, tiểu luận và lịch sử. Ông đã viết hơn 20.000 bức thư và 2.000 cuốn sách và tờ rơi. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là 'Candide', một cuốn tiểu thuyết ngắn bình luận, phản biện và chế giễu nhiều sự kiện, nhà tư tưởng và triết lý ở Kỷ nguyên ông.

Voltaire nổi tiếng vì sự dí dỏm và phê phán Cơ đốc giáo, đặc biệt là Giáo hội Công giáo La Mã, cũng như sự ủng hộ của ông đối với quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và sự tách biệt giữa nhà thờ và trạng thái. Thông qua khả năng phê phán, trí thông minh và sự châm biếm, tác phẩm của Voltaire đã truyền bá một cách mạnh mẽ một lý tưởng tiến bộ mà người dân ở tất cả các quốc gia vẫn hưởng ứng.

Cuộc đời lâu dài của ông kéo dài những năm cuối cùng của chủ nghĩa cổ điển và trước thời kỳ cách mạng, và trong Kỷ nguyên chuyển tiếp này, các tác phẩm và hoạt động của ông đã ảnh hưởng đến hướng đi của nền văn minh châu Âu. Truyền thống của ông tiếp tục truyền cảm hứng và mở đường cho những đổi mới trong tương lai trong lĩnh vực triết học và văn học.

Lời kết

Byron sinh ra với bàn chân khoèo, một cái tên thích hợp cho giai đoạn đầu của mạng lưới. Byron biết Shelley. Kỷ nguyên Shelley đã mang lại sự cải tiến đáng kể cho mạng - sự Phi tập trung. Shelley bất chấp các quy ước xã hội có thể được hiểu là mối quan hệ với sự Phi tập trung. ADA Lovelace là con gái của Lord Byron. Cô là nữ lập trình viên đầu tiên kéo dài đến Kỷ nguyên Goguen. Khả năng lập trình, tức là hợp đồng thông minh, là một phần không thể thiếu của dự án. Goguen đã góp phần phát triển các ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng và xử lý logic. Cái tên này phù hợp với Kỷ nguyên mang lại hợp đồng thông minh cho Cardano. Basho là một nhà du hành. Vì vậy thật phù hợp khi đặt tên cho một Kỷ nguyên gắn liền với khả năng tương tác và khả năng mở rộng theo tên ông. Cha của Voltaire là một quan chức ngân khố trạng thái. Voltaire là người bảo vệ quyền tự do ngôn luận và đấu tranh cho sự tách biệt giữa nhà thờ và trạng thái. Voltaire là cái tên phù hợp cho Kỷ nguyên gắn liền với quản trị on-chain. Ý tưởng của ông có thể được hiểu là mong muốn phi tập trung hóa. Khái niệm Phi tập trung nảy sinh trong cuộc Cách mạng vĩ đại của Pháp.

Nguồn bài viết tại đây


Picture

Đọc thêm các bài viết liên quan tại thẻ Tags bên dưới