Skip to main content

Token Cardano khác với Token Ethereum như thế nào?

Ngày 17 tháng 01 năm 2024 - Chia sẻ bài viết này trên Twitter | FacebookTelegram

Blockchain cho phép người dùng sở hữu token và có toàn quyền kiểm soát chúng. Không bên thứ ba nào có thể lấy tiền của bạn hoặc ngăn cản bạn chi tiêu hoặc sử dụng chúng bất cứ lúc nào. Mạng blockchain có thể cung cấp điều này cho các token gốc như ADA, BTC và ETH. Nhưng có sự khác biệt lớn giữa các nền tảng về token. Cardano xử lý mọi token tương tự như ADA. Vì vậy nó sẽ không cho phép bất kỳ ai có quyền kiểm soát token mà người dùng có trong ví của họ. Ethereum thì linh hoạt hơn. Nó cho phép nhà phát hành token có quyền kiểm soát token minh bạch thời gian tồn tại của chúng. Trong bài viết này, hãy cùng khám phá sự khác biệt giữa các token trên Cardano và Ethereum.

Chuyển native token

Giao thức Blockchain là một bộ quy tắc và hướng dẫn liên quan đến tất cả chức năng được cung cấp bởi dự án nhất định. Trong giao thức, bạn sẽ tìm thấy các quy tắc liên quan đến số lượng tiền gốc tối đa, các quy tắc để chúng dần dần được đưa vào lưu thông, v.v. Nó xác định các quy tắc (điều kiện chi tiêu) để chuyển tiền từ địa chỉ này sang địa chỉ khác.

Khi người dùng gửi giao dịch lên mạng, giao thức sẽ xác thực giao dịch theo các quy tắc quy định. Giao thức chỉ chấp nhận các giao dịch hợp lệ.

Các quy tắc của giao thức được xác định bởi nhóm phát triển. Tất cả những người tham gia vào cơ chế đồng thuận của mạng đều giám sát việc tuân thủ các quy tắc. Bạn có thể tìm thấy các quy tắc này trong kho lưu trữ mã nguồn có sẵn công khai (GitHub).

Bạn có thể nói rằng các token (tài sản của bạn) được bảo vệ bằng sự Phi tập trung, vì bên thứ ba không thể tùy tiện thay đổi các quy tắc. Phần lớn người tham gia mạng phải đồng ý thay đổi các quy tắc.

Nếu không có cách xác định nào để đóng băng tài khoản trong các quy tắc thì giao thức sẽ không cho phép điều này. Việc kiểm duyệt các giao dịch (hoặc đưa địa chỉ vào danh sách đen) gần như không thể thực thi được. Nếu độ Phi tập trung của mạng cao và ít nhất một thiểu số người tham gia (nhà sản xuất khối) sẽ không kiểm duyệt giao dịch thì tất cả người dùng đều có thể tiêu tiền.

Trong hình bên dưới, bạn có thể thấy Alice và Bob sử dụng giao thức thông qua ví của họ. Nhóm phát triển đã xác định các quy tắc của giao thức. Khả năng kiểm soát các quy tắc của nhóm phát triển bị hạn chế trong mạng phi tập trung vì mạng được kiểm soát bởi những người tham gia đồng thuận (những người nắm giữ tài nguyên đắt tiền). Alice và Bob có toàn quyền kiểm soát số tiền này. Không có bên thứ ba nào có thể đóng băng tài khoản của Alice hoặc Bob hoặc ngăn họ tiêu tiền.

Người dùng sở hữu tiền độc quyền và có thể chi tiêu chúng thông qua một giao dịch. Người dùng phụ thuộc vào mạng để có thể tiêu tiền. Mạng có thể được coi là trung gian (bên thứ ba) giữa Alice và Bob. Tuy nhiên, đó không phải là một thực thể duy nhất mà là một nhóm những người tham gia đồng thuận mạng (nhà sản xuất khối, người ủy quyền tài nguyên, v.v.), những người không biết nhau và có động cơ hành xử trung thực.

Trong hình bên dưới, bạn có thể thấy Alice và Bob không cần phải tin tưởng vào một bên thứ ba cụ thể. Họ tin tưởng vào sự Phi tập trung của giao thức, tức là nhóm người tham gia đồng thuận mạng.

Sự vắng mặt của bên thứ ba khiến native token trở thành tài sản kỹ thuật số rất an toàn chỉ được sở hữu bởi bất kỳ ai có quyền kiểm soát khóa riêng (ví). Việc chuyển tiền gốc được bảo đảm trực tiếp bởi các quy tắc giao thức. Các token được lưu trữ trong một sổ cái (trên Blockchain).

Token thông thường so với native token

Token thường khác với native token chủ yếu là do sự tồn tại của chúng không được xác định (đảm bảo) ở cấp độ giao thức. Token có thể được đúc bởi bất kỳ ai. Luôn có bên thứ ba quyết định số lượng token sẽ tồn tại, token sẽ được gọi là gì, liệu chúng có thể bị đốt cháy hay không và các chi tiết khác.

Cũng có thể quyết định có nên đúc tất cả các token cùng một lúc hay không hoặc số lượng token sẽ tăng theo thời gian (nhà phát hành có thể đúc các token mới sau). Một số nền tảng thậm chí có thể cho phép xác định một số điều kiện hoặc chính sách liên quan đến việc phát hành dần dần token vào lưu thông.

Nhà phát hành token có thể giữ quyền kiểm soát token (thông qua hợp đồng thông minh) mãi mãi hoặc từ bỏ quyền kiểm soát. Các nền tảng khác nhau có các tùy chọn khác nhau.

Ví dụ: bên thứ ba có thể là bên thứ ba đúc stablecoin. Ngân hàng giữ tiền pháp định và bên thứ ba đúc (và đốt) token theo tỷ lệ 1:1. Trong trường hợp này, bên thứ ba phải giữ quyền kiểm soát khả năng đúc và đốt token mãi mãi.

Trong trường hợp tạo ra chuỗi NFT, quyền kiểm soát khả năng tạo ra các NFT mới trong chuỗi có thể bị từ bỏ. Có thể đảm bảo rằng số lượng NFT sẽ không bao giờ tăng lên.

Nếu giao thức hỗ trợ sự tồn tại của token thì nó phải cung cấp các chức năng này theo một cách nào đó:

  • Đúc token (và tùy ý đốt chúng).
  • Lưu trữ token trong sổ cái.
  • Chuyển token giữa những người dùng.
  • Tùy chọn, khả năng sử dụng token trong ứng dụng.

Trong Cardano, việc đúc token liên quan đến việc xác định các tham số như tên của token, số lượng được đúc và chính sách đúc.

Mặt khác, trong Ethereum, việc đúc token là một quá trình phức tạp hơn liên quan đến việc viết một hợp đồng thông minh. Hợp đồng thông minh này bao gồm các chức năng tạo (đúc) và quản lý token, đồng thời phải tuân thủ một tiêu chuẩn cụ thể (như ERC-20 hoặc ERC-721) để đảm bảo khả năng tương thích với các hợp đồng và ví khác. Các chức năng này bao gồm các phương thức chuyển token từ địa chỉ này sang địa chỉ khác.

Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn về Cardano. Sau đó chúng ta sẽ xem xét Ethereum. Sự khác biệt giữa các nền tảng rất đáng kể về mặt token.

Cardano có tính năng tài sản gốc (native token)

Cardano được thiết kế để hoạt động gần nhất có thể với cách giao thức hoạt động với ADA. Cardano được gọi là sổ cái đa tài sản.

Nhà phát hành token có quyền kiểm soát chính sách đúc tiền, tức là các thuộc tính cơ bản của token. Giao thức chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc lưu trữ và chuyển token. Đây là những tính năng mà nhà phát hành token không có quyền kiểm soát về mặt thiết kế. Cardano xử lý token một cách tự nhiên. Nghĩa là, giống như ADA.

Nói một cách đơn giản, sổ cái và giao thức có thể xử lý token mà không cần bên thứ ba (nhà phát hành token) cung cấp mã nguồn (tập lệnh/hợp đồng thông minh) với các quy tắc và chức năng bổ sung cho các hoạt động cơ bản. Ngay cả nhà phát hành token cũng không có cách nào để tác động đến hoạt động của giao thức về mặt lưu trữ và chuyển token.

Trong hình ảnh bên dưới, bạn có thể thấy khả năng đúc (và đốt) token của nhà phát hành token được tách biệt như thế nào với khả năng chuyển và lưu trữ token của họ.

Thiết kế này mang lại nhiều lợi ích cho người dùng. Sau khi token được chuyển đến địa chỉ Blockchain của người dùng, họ có quyền kiểm soát độc quyền đối với chúng. Không bên thứ ba nào có quyền kiểm soát các token có trong ví của người dùng. Người dùng không thể bị hạn chế dưới bất kỳ hình thức nào về quyền sử dụng token của họ.

Nếu nhà phát hành token giữ quyền kiểm soát việc đốt token, họ chỉ có thể làm như vậy nếu token ở địa chỉ của nó. Người dùng phải tự nguyện gửi token đến địa chỉ của nhà phát hành token. phòng trường hợp này, token mới có thể bị đốt cháy.

Cardano phù hợp với các nguyên tắc Phi tập trung. Khái niệm được sử dụng cho ADA cũng được sử dụng cho token ở mức tối đa có thể. Tuy nhiên, điều này cũng có nhược điểm về phạm vi ứng dụng.

Không thể triển khai việc đóng băng tài khoản hoặc đưa địa chỉ vào danh sách đen trên Cardano. Điều này là không thể đối với ADA và do đó cũng không thể đối với token.

Về mặt nguyên tắc, đây là một giải pháp lý tưởng. Thật không may, từ góc độ tương thích với các quy định của thế giới tài chính hiện tại, điều này có vẻ như là một bất lợi. Nó phụ thuộc vào việc bạn là một người đam mê mạng ngưỡng mộ truyền thống ban đầu của Satoshi hay là một người thực dụng muốn thấy các giao thức Blockchain dần thay thế cơ sở hạ tầng tài chính lỗi thời.

Nhóm IOG đã chọn thiết kế token này vì nhiều lợi ích khác.

Không có sự phụ thuộc giữa tập lệnh đúc và token về mặt chức năng. Điều này có nghĩa là có thể chèn nhiều loại token vào một giao dịch cùng một lúc. Không cần sử dụng chức năng của bên thứ ba (mã nguồn) để truyền, do đó nó được thực hiện ở cấp độ giao thức. Điều này có nghĩa là việc chuyển giao là hiệu quả và do đó rẻ. Nó cũng an toàn hơn vì giao thức Cardano được sử dụng hàng ngày, do đó đoạn mã đã được kiểm tra rất tốt. Người dùng được cách ly khỏi các lỗi mà về mặt lý thuyết có thể có trong mã của bên thứ ba.

Thiết kế Cardano cũng có lợi thế về việc sử dụng token trong ứng dụng. Các ứng dụng hoạt động với token tương tự như coin ADA. Điều này rất dễ dàng vì không cần phải làm việc với các hợp đồng thông minh có thể xác định các hành vi khác nhau cho mỗi token (mặc dù các tiêu chuẩn giúp việc này trở nên dễ dàng hơn). Việc sử dụng token trong các ứng dụng rất hiệu quả và không tốn kém, tương tự như việc chuyển tiền.

Việc đúc token tương đối đơn giản và không yêu cầu định nghĩa các hàm chuyển token. Như đã đề cập, nhà phát hành token chỉ xác định các thuộc tính cơ bản của token.

Vòng đời của token trong Cardano bao gồm thiết lập mọi thứ, xây dựng địa chỉ và khóa mới, tạo chính sách đúc, soạn thảo giao dịch đúc, tính phí, gửi giao dịch và đúc token, gửi token đến ví và tùy chọn đốt một số token (từ địa chỉ của nhà phát hành token).

Mặc dù nền tảng Cardano có vẻ lý tưởng và an toàn cho việc đúc token, nhưng nghịch lý là bạn sẽ không tìm thấy USDT và USDC stablecoin trên đó. Điều này là do Circle và Tether yêu cầu chức năng của hệ thống tài chính truyền thống, tức là họ yêu cầu khả năng đóng băng tài khoản người dùng hoặc địa chỉ trong danh sách đen. Họ không thể triển khai chức năng này trên Cardano, đây là một trở ngại đối với họ.

Chúng ta hãy xem cách các token hoạt động trên Ethereum.

Token được phát hành thông qua hợp đồng thông minh

Nhà phát hành token trên Ethereum phải viết hợp đồng thông minh xác định tất cả các chức năng liên quan đến token. Token được tạo và quản lý bởi hợp đồng thông minh. Các tiêu chuẩn token phổ biến nhất, chẳng hạn như ERC-20, xác định một tập hợp các chức năng để tương tác với token, bao gồm chuyển token và truy vấn số dư của địa chỉ.

Bản thân giao thức Ethereum không trực tiếp quản lý token. Thay vào đó, nó cung cấp cơ sở hạ tầng, cụ thể là Máy ảo Ethereum (EVM) cho phép thực thi các hợp đồng thông minh.

Nếu không có EVM, Ethereum sẽ không thể chuyển hoặc lưu trữ token. Đây là điểm khác biệt lớn giữa Cardano và Ethereum.

Khi token được tạo ra, hợp đồng thông minh sẽ ghi lại số lượng token và gán nó cho địa chỉ Ethereum. Điều này thường được thực hiện trong chức năng xây dựng của hợp đồng thông minh khi nó được triển khai lần đầu tiên.

Mỗi địa chỉ Ethereum tương tác với token có số dư liên quan, được lưu trữ ở trạng thái của hợp đồng thông minh. Trạng thái là cấu trúc dữ liệu lưu trữ tất cả thông tin về hợp đồng, bao gồm số dư của tất cả các địa chỉ. Khi token được chuyển, hợp đồng sẽ cập nhật trạng thái để phản ánh số dư mới. Chức năng chuyển tiền là một phần của hợp đồng thông minh cho phép gửi token từ địa chỉ này sang địa chỉ khác.

Bạn có thể nhìn thấy nó trong hình dưới đây. Nhà phát hành token kiểm soát hợp đồng thông minh được sử dụng cho tất cả các chức năng bao gồm cả chuyển token. Khi Alice gửi token cho Bob, việc này được thực hiện thông qua mã được triển khai trong hợp đồng thông minh.

Token được đúc trên Ethereum có nhiều nhược điểm so với Cardano.

Việc thực thi hợp đồng thông minh tiêu tốn nhiều tài nguyên hơn so với việc sử dụng chức năng giao thức gốc. Và phí sẽ cao hơn. Gửi nhiều token trong một giao dịch hơi phức tạp. Mã nguồn của bên phát hành có thể chứa lỗi.

Các ứng dụng làm việc với token, tức là hợp đồng thông minh, phải tương tác với hợp đồng thông minh của token. Đây là một cách tiếp cận khác với Cardano, nơi các ứng dụng tương tác với các chức năng của tầng giao thức.

Ethereum cho phép cấu thành các hợp đồng thông minh, nghĩa là một hợp đồng thông minh có thể tương tác với một hợp đồng khác. Có thể xâu chuỗi chức năng của hợp đồng thông minh lại với nhau. Một hợp đồng thông minh có thể gọi một hợp đồng khác, hợp đồng này gọi một hợp đồng thứ ba. Nó đôi khi được gọi là 'lego tiền'. Điều này cho phép xây dựng các hành vi và tương tác phức tạp từ những hành vi và tương tác đơn giản hơn. Đây có thể là một lợi thế cho một số trường hợp sử dụng.

Các hợp đồng thông minh của Cardano tách biệt với nhau hơn, điều này có thể hạn chế một số loại tương tác nhất định nhưng cũng có thể làm giảm nguy cơ một hợp đồng này ảnh hưởng tiêu cực đến hợp đồng khác.

Có thể thực hiện đóng băng tài khoản và đưa vào danh sách đen trong hợp đồng thông minh Ethereum. Điều này thường được thực hiện bằng cách đưa các quy tắc cụ thể vào hợp đồng thông minh.

Điều quan trọng cần nói là có thể tạo ra một hợp đồng thông minh phù hợp với lý tưởng Phi tập trung. Ethereum linh hoạt hơn về khả năng tạo ra các chức năng cụ thể. Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng việc cho phép điều này sẽ tạo điều kiện cho các công ty như Circle lạm dụng nó.

Circle, nhà phát hành USDC, có thể đóng băng và đưa các địa chỉ vào danh sách đen.

Khi một địa chỉ bị đưa vào danh sách đen, địa chỉ đó sẽ không thể nhận USDC được nữa. Tất cả USDC do địa chỉ đó kiểm soát đều bị chặn và không thể chuyển on-chain. Chỉ địa chỉ quản trị viên mới có thể cập nhật hợp đồng thông minh với địa chỉ bị liệt vào danh sách đen.

Nếu một doanh nghiệp được quản lý có cơ hội sử dụng Blockchain, nó sẽ hạn chế sự Phi tập trung. Mặc dù người dùng có quyền lựa chọn nhưng hầu hết đều không quan tâm đến chi tiết về Phi tập trung. USDC là một dự án rất thành công bất chấp những gì Circle có thể làm với tài khoản người dùng.

Lời kết

Thiết kế của các nền tảng riêng lẻ cho thấy những tính năng nào được các nhóm ưa thích.

Đối với Cardano, trọng tâm là các nguyên tắc Phi tập trung, hiệu quả, khả năng dự đoán và độ tin cậy. Một giao dịch Cardano, bao gồm cả các giao dịch tập lệnh, hầu như sẽ luôn sớm được chèn vào một khối nếu nó vượt qua quá trình xác thực cục bộ. Các giao dịch token độc lập với nhau và dễ xác minh.

Trong trường hợp của Ethereum, trọng tâm là tính linh hoạt và khả năng kết hợp. Khi Ethereum được tạo ra, người ta cho rằng tất cả chức năng phải được thực thi on-chain. Khả năng viết hầu hết mọi thứ vào hợp đồng thông minh và để nhà phát hành token kiểm soát token đang chứng tỏ là một lợi thế liên quan đến việc ứng dụng bởi các tổ chức tài chính được quản lý. Tôi tin rằng ngành công nghiệp Blockchain nên có tham vọng cao hơn là chỉ đổi mới cơ sở hạ tầng tài chính truyền thống.

Nguồn bài viết tại đây


Picture

Đọc thêm các bài viết liên quan tại thẻ Tags bên dưới